Năm 1835, vua Minh Mạng đổi đồn An Man ở Nam Vang làm thành Trấn Tây, bước đầu thu Cao Miên vào bản đồ nước Việt. Những người theo chủ nghĩa dân tộc coi đây là một mốc quan trọng của nước nhà, đánh dấu thời điểm bản đồ nước Việt lớn nhất trong lịch sử. Xét trong khuôn khổ từ thời nhà Ngô, nhà Đinh khai mở độc lập, điều này không sai. Nhưng chiến tích có thực huy hoàng, thực có lợi cho nước ta hay không, thì phải coi lại cho rõ.
I. CHIẾM ĐẤT ĐOẠT DÂN
Trong chiến tranh thời xưa, người ta coi trọng nhất việc chiếm được đất, đoạt được dân của đối phương. Đất có thể sản lương thực, dân có thể thu thuế bắt lính. Ấy là cái đạo dùng chiến tranh nuôi chiến tranh.
Nếu xét trên phương diện này, Trấn Tây là một thất bại lớn của nhà Nguyễn. Ý định ban đầu khi thiết lập hệ thống cai trị ở Trấn Tây, đầu tiên là tạo ra ảnh hưởng trong khu vực, lấn át Xiêm La, dùng Trấn Tây làm đất phên dậu; và thứ hai là thu lợi từ đất và dân ở đó, chí ít thì cũng để tự cung tự cấp.
Nhằm thực hiện mục tiêu thứ hai, ngay từ tháng Sáu nhuận năm 1835, vua Minh Mạng đã dụ cho Trấn Tây tướng quân Trương Minh Giảng về việc khai hoang và lập đồn điền: “Việc thứ hai là chứa thóc lúa, làm đồn điền cũng là việc cần. Vả, quân ta có nhiều và đóng lâu ở đấy, hàng năm vận tải khó nhọc phí tổn, khó lòng đều đặn được, thế mà Trấn Tây là đất rất màu mỡ, bỏ hoang còn nhiều. Chính phải nên chiêu mộ dân Kinh, theo đi khai khẩn cày cấy và cư trú. Lại ra lệnh cho biền binh trú phòng, nhân lúc nhàn rỗi này, hoặc trích lấy một nửa hoặc liệu một phần ba đến chỗ gần và tiện, vừa cày vừa tập luyện, thì sau đó vài năm thóc gạo không sao ăn xuể”[1].
Tuy nhiên, hơn một năm sau, tức tháng 8/1836, số đất khẩn hoang tại Trấn Tây chỉ đạt vỏn vẹn 400 mẫu: “Thành Trấn Tây mới đầu khai thác, ruộng đất màu mỡ, mà hoang còn nhiều, ta đã từng sai biền binh trú phòng làm đồn điền, hiện được hơn 400 mẫu; nếu cứ khai khẩn dần dần, thì đất đai ngày mở mang, thóc gạo thừa thãi, thực đủ làm lợi vô cùng cho nghìn muôn đời”[2] và con số này được giữ nguyên tới tháng Mười: “Mặt sau thành Trấn Tây, địa thế thấp và ẩm ướt, gặp nước lụt mùa thu tràn lên thì trại lính và đường sá ở ngoài thành, nước sâu đến 2, 3 thước ; hơn 400 mẫu ruộng khai khẩn trồng trọt cũng ngập sâu đến 5, 6 thước”[3].
Khai khẩn không được bao nhiêu nên việc cai trị ở Trấn Tây hoàn toàn do triều đình cung dưỡng, hằng năm đều chở gạo, tiền sang. Chúng ta có rất nhiều ghi chép về việc chở gạo từ Vĩnh Long, An Giang sang Trấn Tây từ khi mở đất cho tới hết đời Minh Mạng[4]. Để đánh giá phí tổn trong chiến dịch chiếm Cao Miên, có thể dựa vào các con số mà Hiệp tán Trấn Tây là Cao Hữu Dực tâu kín với vua vào năm 1839: “Thành hạt Trấn Tây là thượng du sáu tỉnh Nam Kỳ, giáp giới với nước Xiêm, sau khi mới định, chưa tiện bỏ việc quân, hằng năm phái đi đóng đến 5.000 - 6.000 người, tiền, gạo phải chi đến 7, 8 vạn, đã nghiêm phòng thủ, kiêm việc vỗ yên”[5].
Thời điểm năm 1839 là khi số ruộng đất khai khẩn đã tăng nhiều so với hồi 1836, con số báo lên triều đình là 3.000 mẫu vào tháng Bảy năm 1838 và không có gì thay đổi tới tận tháng Mười năm 1840[6]. Tuy nhiên, cả lượng đất lẫn thóc lúa thu được chưa thấm vào đâu, khiến vua Minh Mạng phải than rằng: “Nay khai khẩn được trên 3.000 mẫu, về chăm chỉ chịu khó cũng là đáng khen. Nhưng ruộng ấy phần nhiều bị hạn, lụt tổn hại, nên thóc gạo thu được chỉ 4, 5 nghìn hộc, thì dùng sức nhiều mà hiệu quả ít, chưa đáng nói đến công, nên ra dụ sai quan thành ấy gia tâm khuyến bảo quân lính hết sức khai khẩn cày cấy”[7].
Cuối đời Minh Mạng, Trương Minh Giảng đưa ra các con số rất đáng chú ý: Thóc thu được trong một năm ở Trấn Tây là 13.000 hộc, nhưng tiền lương một tháng cho quan binh là 28.000 quan và phương. Kể từ mồng 1 tháng này đến cuối tháng 2 sang năm, tiền gạo phải chi đều mỗi thứ hơn 168.000 quan và phương. Mà ở hạt và các phủ thành hiện chứa tiền hơn 62.300 quan, thóc gạo hơn 91.300 hộc và phương. Vậy còn thiếu tiền là hơn 105.700 quan, gạo hơn 76.700 phương”[8]. Lời tâu này có phần hơi rối với đọc giả hiện đại vì các đơn vị tiền, gạo. Nhưng tựu trung, trong một năm, triều đình phải cấp thêm cho Trấn Tây là 105.700 quan tiền và hơn 76.700 phương gạo. Con số gần 8 vạn phương gạo chiếm khoảng 16% hoặc hơn tổng số chi toàn quốc[9].
Sự thâm hụt lớn này, rất đơn giản, là vì tuy nhà Nguyễn chiếm được đất nhưng không đoạt được dân. Dân bản địa không theo nhà cai trị (đương nhiên) nên thường xuyên phản kháng khắp cả nước, đúng như tình trạng cuối thời chiếm đóng: Chỉ đóng quân trong thành để giữ, còn để mặc loạn quân hoành hành ở bên ngoài[10]. Tổng kết lại đúng như lời đúc rút của quan Khoa đạo là Đặng Quốc Lang và Vũ Phạm Khải: “Người về với Xiêm, thì là hạng hữu dụng; đất dẫu về ta thì gây ra tổn phí vô dụng”[11].
Đó cũng là lý do mà Hán Văn đế từng nói với Triệu Đà: “Được đất của vương cũng chẳng đủ để lấy làm lớn, được của cải của vương cũng chẳng đủ để lấy làm giàu, từ Phục lĩnh trở về nam, vương tự cai trị lấy”[12].
Chiếm lấy một mảnh đất, chẳng những không thu được mảy may lợi ích mà còn phải bù lỗ, cũng chẳng làm biên thùy yên ổn, ván cờ của vua Minh Mạng thực sự đã thua triệt để.
II. THIỆU TRỊ SA LẦY
Thế cục Trấn Tây không còn vẻ huy hoàng từ cuối đời Minh Mạng. Chẳng những mục tiêu thu lợi từ đất, từ dân không mảy may đạt được, mà mục đích dùng Trấn Tây làm phên dậu phòng ngự người Xiêm cũng thất bại. Một trong các nguyên nhân dẫn đến thất bại này là do quân Việt không được lòng dân Chân Lạp. Các con bài thủ lĩnh bản địa mà nhà Nguyễn nắm trong tay chỉ là mấy chị em gái quận chúa Ngọc Biện, Ngọc Vân, Ngọc Nguyên - con của cố quốc vương Nặc Chăn. Phía người Xiêm, họ nắm được trong tay Nặc Ong Giun - em trai của Nặc Chăn, người được dân tâm Chân Lạp hướng về. Trong suốt khoảng thời gian nhà Nguyễn lập thành Trấn Tây, nước Xiêm không ngừng đưa quân áp sát biên giới với chiêu bài đưa Nặc Ong Giun về nước. Liên minh Xiêm La - Nặc Ong Giun được người Chân Lạp ủng hộ, liên tục các cuộc khởi nghĩa (nổi loạn) nổ ra chống lại đạo quân của Trương Minh Giảng. Hậu quả là quân Việt phải co cụm phía sau thành trì, bỏ mặc các địa phương bên ngoài.
Ban đầu, vua Minh Mạng bắt đưa hết chị em Ngọc Vân về Đại Nam giam lỏng, nhưng rồi, sự thất thế tại chiến trường miền tây khiến chủ trương của triều đình thay đổi. Đặc biệt sau âm mưu bỏ trốn của Ngọc Biện nổ ra (bị bắt và xử trảm), quan Khoa đạo là Đặng Quốc Lang và Vũ Phạm Khải dâng sớ xin đưa Ngọc Vân về để thu phục nhân tâm. Nhưng Minh Mạng từ chối, với lý do khá bạo ngược: “Kể ra thổ dân đối với bọn chúng có gì là yêu mến suy tôn đâu? Nếu quả thực lòng yêu mến suy tôn, thì người tâu bày lời nói, càng nên xin chính pháp giết đi để dứt cái lòng ngấp nghé trông ngóng, há nên vô cớ buông tha cho về, để cho nó lại dỗ dành thổ dân ư?”[13]. Nghĩa là về bản chất, vua Minh Mạng vẫn chủ trương đàn áp triệt để người Chân Lạp: “đang lúc ngọn lửa bạo ngược của chúng bốc lên, không nghĩ đến việc sớm dẹp tắt đi, lại bàn đến cuộc xử hoà, chịu nhún theo chúng để thêm cái ác cho chúng mà chúng lại càng kiêu ngạo, thì ngày khác lấy gì mà trị nổi được chúng ư”[14].
[1] Thực lục - đệ nhị kỷ - 1835.
[2] Thực lục - đệ nhị kỷ - 1836.
[3] Thực lục - đệ nhị kỷ - 1836.
[4] Tháng Ba năm 1836, Thực lục chép lời tâu của Trương Minh Giảng: “Ở thành Trấn Tây và An Giang, Hà Tiên, hằng năm chi tiền và gạo ước trên 120.000, mà kho chứa An Giang chưa đầy đủ.”
Tháng Hai năm 1837, Thực lục chép lời tâu của quan thành Trấn Tây: “Thành ấy cùng tỉnh Hà Tiên đều do tỉnh An Giang cấp lương thực.”
Tháng Giêng năm 1838, Thực lục chép “Lại cho đem gạo ở Vĩnh Long 30.000 phương, ở Định Tường 20.000 phương vận tải ở Trấn Tây để dùng.”
Tháng Mười năm 1838, Thực lục chép lời tâu của Tổng đốc Long-Tường: “Hai tỉnh Vĩnh Long, Định Tường, tiền thóc đầy thừa, hằng năm thường chở đến An Giang chuyển giao cho Trấn Tây để dùng.”
Tháng Chín năm 1840, Thực lục chép: “Sai tỉnh An Giang tải 20.000 quan tiền, 20.000 phương gạo đến Trấn Tây và Vĩnh Long. Lại tải 30.000 quan tiền, 50.000 phương gạo đến An Giang để chứa thêm.”
[5] Thực lục - đệ nhị kỷ - 1839.
[6] Lời tâu của quan viên Trấn Tây năm 1840: “ruộng đồn điền có hơn 3.000 mẫu”, cho thấy hầu như không có tiến triển gì trong hai năm liền.
[7] Thực lục - đệ nhị kỷ - 1839.
[8] Thực lục - đệ nhị kỷ - 1840.
[9] Lời tâu vào năm 1834 của bộ Hộ cho biết “hằng năm chi thóc gạo ra trên dưới 500.000 hộc, phương”. Với con số 50 vạn này, vua Minh Mạng cho rằng: “số thóc gạo thường chi là 50 vạn, cũng là căn cứ vào tình hình hiện tại mà nói ; sau này, nước nhà nhàn hạ, binh ngụ ở nông, các biền binh phần nhiều chia ban, thì số chi tất giảm đi”.
[10] Thực lục chép: “Vua [Thiệu Trị] ngồi thừ ra một lúc, rồi bảo các đại thần Trương Đăng Quế và Phạm Hữu Tâm rằng: ‘Sự thế ở Trấn Tây như thế, các tướng quân, tham tán và tán lý nay xin thêm quân, mai xin thêm lương, 5, 6 tháng nay chưa từng làm được việc gì; nay lại đắp lũy, giữ chặt riêng một xó, còn bọn giặc ở chỗ khác không dám động gì đến!... Còn ngoài chỗ quân quan đồn trú, hơn 20 huyện đất rộng như thế, để mặc cho bọn giặc tự do đi lại, không còn kiêng sợ gì! Thậm chí đến quân đóng ở tấn Xà Năng cũng rút về nốt, tự mình dỡ bỏ các phên che đi, để cho đường sá bị trở ngại, sự thám báo không thông, nhất thiết không nghĩ gì đến cả.”
[11] Thực lục - đệ nhị kỷ - 1840.
[12] Hán thư - Truyện Nam Man.
[13] Thực lục - đệ nhị kỷ - 1840.
[14] Thực lục - đệ nhị kỷ - 1840.